thien su di nhu
Tiểu thuyết "Thần Điêu Hiệp Lữ" Cửu Dương Chân Kinh lần đầu được nhắc đến là khi Giác Viễn thiền sư truy đuổi Doãn Khắc Tây và Tiêu Tương Tử đến Hoa Sơn ở phần cuối Thần điêu hiệp lữ. Doãn Khắc Tây và Tiêu Tương Tử trong khi tạm lánh ở Thiếu lâm tự đã ăn trộm bộ sách này và đã bị Giác Viễn truy đuổi để đòi lại.
Hình Phật đẹp Hình Phật chất lượng cao Hình Phật kích thước lớn Hình ảnh Phật Giáo. Kính chào quý khách đã đến với website: Hinhphat.com, website chúng tôi chuyên cung cấp hình ảnh Phật (tranh ảnh Phật) dùng làm hình thờ cúng, hộ niệm, cúng dường.Với kho hình Phật đẹp đa dang về hình ảnh, màu sắc và kích
Bàn mát, bàn lạnh công nghiệp chính hãng, giá tốt nhất tại Thiên Bình - THIÊN BÌNH GROUP Bàn mát Trang chủ Bàn mát, bàn lạnh công nghiệp chính hãng, giá tốt nhất tại Thiên Bình Bộ lọc -6% Bàn mát 2 cánh kính Snow Village 1m2 PLO.18L2CBL 15,650,000₫ 16,650,000₫ Thêm vào giỏ -5% Bàn mát 2 cánh kính Snow Village 1m5 PLO.25L2CBL 17,280,000₫ 18,280,000₫
Vay Tien Online Me. Thừa lệnh của Thiền Sư Bồ Tát Di Như, Viện Hộ Đạo xin viết lời mở đầu. " Đây là 72 câu hỏi của ông Tạng Thân gởi cho Thiền Sư Bồ Tát Di Như nhờ giải thích. Dựa trên những lời dạy của Đức Vô Thượng Di Lạc Tôn Phật, Thiền Sư đã trả lời xong 72 câu. Và Thiền Sư thấy cần gởi đến tất cả các Chân Tử của Thiền Sư đọc để thâm nhập Phật Pháp như là một trong những tài liệu giáo lý cần thiết Tu Giải Thoát". Cali, Hoa Kỳ tháng 12 năm 2010 1. Chìa khóa hoá giải tất cả mê lầm? * Không chướng, không chấp là Chơn Pháp hóa giải tất cả mê lầm. 2. Bổn lai diện mục của Thiền Như Lai? * Bổn lai diện mục của Thiền là Thiền Tánh, của Như Lai Thiền là Như Tánh, vào chân đế của Như Lai Thiền là Như Như. 3. Bổn lai diện mục Lục Đạo và giải quyết rốt ráo lục đạo? Tam giới? * Bổn lai diện mục Lục Đạo Mỗi chúng sanh có một chủng tánh tập nhiễm nặng nhất đó là bổn lai diện mục như Thiên, Nhân, A Tu La, Súc Sanh, Ngạ Qủi, Địa Ngục. * Giải quyết rốt ráo lục đạo Mỗi môn giải quyết, cứu chữa rốt ráo một bệnh mê lầm - Pháp Thiền Định nhiếp độ giải quyết rốt ráo Thiên, Thần, Tiên. - Pháp Trí Tuệ nhiếp độ giải quyết rốt ráo Nhân. - Pháp Nhẫn Nhục nhiếp độ giải quyết rốt ráo A Tu La. - Pháp Tinh Tấn nhiếp độ giải quyết rốt ráo Súc Sanh. - Pháp Trì Giới nhiếp độ giải quyết rốt ráo Ngạ Qủi. - Pháp Bố Thí nhiếp độ giải quyết rốt ráo Địa Ngục. * Tam Giới Bậc tu chưa giác ngộ thường không ra khỏi một trong ba cõi này Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới. * Không ham muốn giải quyết rốt ráo Dục giới. * Không thọ chủng sắc tướng, âm thanh, giải quyết rốt ráo Sắc giới. * Không chấp Không, nương khởi sanh, khởi diệt, giải quyết rốt ráo Vô sắc giới. 4. Bổn Lai diện mục Tiểu Ngã Giả Tưởng? * Tiểu Ngã là chủng tánh của chúng sanh. Suy nghĩ là Tưởng là loạn tưởng, khi lầm nó giả không thật. Mỗi người có hằng hà sa số chủng tánh, nặng chủng tánh nào là bổn lai diện mục Tiểu ngã đó, sẽ bị thọ nghiệp về cảnh giới đó. 5. Làm cách nào giải quyết sanh tử? * Nương vào vạn pháp hiện sanh, hóa giải, trực giác hiện sanh, giải quyết sanh tử. Vạn pháp là Nghe Thấy Biết. 6. Đức Phật ăn cái gì? * Chư Phật mười Phương ăn Lòng Thành của chúng sanh. - Chúng sanh tu Phật cúng trên bàn Phật như nhang mùi hương hôi, chua, hoa loại cây thường mọc ở ngoài đường, quả loại không được tươi, khô héo. - Ma, Qủi thọ nghiệp độc ác cũng tu Phật họ mang tâm dã Thú, nhất là thời mạt pháp, họ nấu nướng cúng chay nhưng gọi đó là thịt, cá, dâng Chư Phật, cúng xong tổ chức ăn uống linh đình... - Bậc tu chân chính dâng cúng Chư Phật nhang trầm loại thật qúi, hoa quả lựa chọn loại tươi tốt nhất. - Nói chung bậc tu Thọ Báo, Phước Báo, Chánh Báo cũng tu Phật, họ đều dâng cúng Chư Phật. Tướng chính Tâm nên thể tánh dâng cúng, hoàn toàn thấp hèn và thanh cao khác nhau. Do vậy Chư Phật ăn lòng thành của chúng sanh bình đẳng mà Bất Bình Đẳng. 7. Thế nào là Bồ Tát Ma Ha Tát? Trong 55 cảnh giới Bồ Tát, Bồ Tát Ma Ha Tát ở chỗ nào? Kể rõ 55 cảnh giới Bồ Tát. * Bồ Tát Ma Ha Tát phải là bậc tu thấu đạt Bát Nhã Trí. Trí Bát Nhã là trí viên thông, ra vào vạn pháp viên giác. Đó chính thị Ma Ha Tát. * "Y kinh thì Tam Thế Phật oan. Ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết" nên chi bị biết, bị tu. Do đó không chỉ 55 cảnh giới mà trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, Bồ Tát không trụ cảnh giới nào mà trụ. Trụ mà không trụ, miễn sao Bồ Tát MHT ra vào vạn pháp thuận-nghịch, tịnh bất tịnh, hoàn cảnh khắc nghiệt đến mức nào, tâm không quái ngại, đặng tự tại thọ pháp Tổng Trì Đà la Ni Tạng đoạt Đại Bi, vô ngã nhiếp thâu Đại Ngã. 8. Trong Thập Địa Bồ Tát, địa thứ 7 khác địa thứ 8 chỗ nào? Làm sao thực hiện? * Trong thập địa Bồ Tát - Địa thứ 7 là Viễn hành địa. Bồ Tát đã trực giác kiến diện Như Lai, đang chứng thị được như pháp. Hành dụng được vạn pháp. Thấu đạt phẩm xuất thế gian vào Nhứt Thừa. - Địa thứ 8 là Bất động địa Sạch chướng, chấp, nương vạn pháp bất tăng bất giảm, thành tựu Thực tướng Vô tướng tam muội. Nhận chân được thời gian, không gian vốn vô thủy vô chung. - Khác nhau ở chỗ Địa thứ 7 Bồ Tát Địa phẩm Nhứt Thừa. Địa thứ 8 Mở màn vào được phẩm Tối Thượng Thừa. - Thực hiện Chưa Sở đắc Thực tướng Vô tướng Tam muội, Pháp môn không thực hiện được. Bậc sở đắc 3 pháp Môn Vô Sanh Pháp Nhẫn, Bình Đẵng tánh Trí, Thực Tướng Vô Tướng Tam Muội được Phật Vương chứng minh thật hiếm. 9. Con đường tu hành từ Tri Kiến Phật đến Phật Tri Kiến? Tri Kiến Phật khác Phật Tri Kiến? * Tri kiến Phật Tri là biết. Kiến là thấy. Tức thấy rồi hành mới biết Phật, là phải tu và hành từ Có đến Không. Sắc tức thị Không. Chúng sanh giới sạch. Ví như Một người leo núi, đi từ chân núi vượt xong tất cả chướng ngại, hoàn cảnh, lên được đến đỉnh núi. Nhất Thiết Trí. * Phật Tri kiến Phật là Giác. Tri kiến là biết rồi hành thâm mới Thấy từ Không đến có. Không tức thị Sắc. Ví như Đến đỉnh núi rồi người leo núi phải đi xuống tận chân núi để thương mến, sống chung, thân cận với tất cả chúng sanh đặng thâm nhập đường đi lối về chúng sanh giới. Nhất Thiết Chủng Trí. - Tri Kiến Phật là giác ngộ, khác ở chỗ Phật Tri kiến là thành diệu quả. - Đúng nghĩa Mất tất cả để Có tất cả. Giác chỉ giảng, nói giỏi nhưng chưa hưởng được chân lý. Thành đạo là Quả mới hưởng được chân như. Lìa chân như, thấu đạt như như Tứ thời mỗi động tịnh đều Tương thông Phật Lực. * Duy chỉ bậc tu tin vâng chư Phật, Chư Bồ Tát mới hành dụng, diệu dụng cho tùy công năng công đức chịu đựng cạn sâu, Sắc tức thị Không đến trước. Tự đi khó có ai biết lộ trình hành cho sạch. Sạch rồi tự biết Kính. Đây là kinh nghiệm. Ai có qua cầu mới hay. 10. Phật Tri Kiến đã rốt ráo chưa? Tại sao? * Phật Tri Kiến nếu chịu đựng sạch đến chân đế chủng chủng chúng sanh thì rốt ráo. Còn sạch một phần nào, cạn hay sâu thì chưa rốt ráo. - Ví như A la Hán, Đại A la Hán, Sơ trụ Bồ Tát, Bồ Tát, Bồ Tát Ma Ha Tát… Tóm lại, tự đi như người mù chưa sạch tận. Tại sao? Điều quan trọng khi thi hành vạn pháp, thử hỏi làm sao mình biết chắc, pháp này hành đúng, không đúng? Vì số đông bậc tu chưa tỏ thông đường đi lối về nơi vạn pháp. 11. Thần thông Pháp Tánh khác Thần thông Tam Muội? * Thần thông Pháp Tánh chưa giải quyết được Sanh Tử. Do còn tập nhiễm Không. - Đắc Thần thông Tam Muội cũng còn sanh tử. Vận chuyễn rốt ráo Tam Muội. Bất tử. Vậy khác nhau xa ở chỗ còn Sanh tử và Bất tử. 12. Làm thế nào vào Chánh Định Tam Muội? * Vào được Chánh Định Tam Muội phải qua thứ tự sau đây - Phải đắc Thiền Trí mới vào được Định. Định có nhiều cấp do Tịnh, Bất Tịnh cạn sâu. - Phải sở đắc Vô Thượng Đẵng Chánh Giác. Lúc bấy giờ thể tánh chánh giác và thiền trí là một. Khi vận chuyễn tam muội liền vào Chánh định Tam muội. * Phẩm của chư Bồ Tát, Ma Ha Tát, Chư Phật. Dù Đại A la Hán sở đắc liễu ngộ, chưa đến Chánh Giác, cũng không vào được Chánh Định Tam Muội. * Kỳ Hạ Lai kiếp này 1918-1993, ngoài Đức Vô Thượng Tôn Di Lạc đào tạo được Bồ Tát Ma Ha Tát, trong đạo chưa có Chân Phật Tử thứ hai sở đắc Vô Thượng Đẵng Chánh Giác nên khó biết. Do đâu? Có tin Phật hiện tại, nhưng Vâng chưa cực điểm, để được chỉ đạo hành thâm rốt ráo chủng tử pháp giới. 13. Hàng phục cảnh giới bằng cách nào? Sắc - Thinh - Hương - Vị - Xúc Pháp ra vào không nhiễm. 14. Giải thích "Nó vốn có nó sẵn không, sẵn nơi không đồng chốn có?" * Các pháp vốn sẵn có trong vũ trụ, khi nó đồng hợp đồng hóa liền có, khi không hợp, không hóa nó sẵn không. Từ nơi chưa hợp hóa nó vốn không, khi hợp hóa nó hàm chứa sẵn có. Phẩm Bát Nhả Trí Sắc tức thị Không, Không tức thị sắc. 15. Thế nào là Thực Tướng Vô Tướng Tam Muội Pháp Môn? Chứng từ biện minh. *Trong hội trường thời Đức Phật Thích Ca, một hôm Ngài đưa cành hoa lên. Tôn giả Ma Ha Ca Diếp mĩm cười. Đức Phật biết Ma ha Ca Diếp đắc Tam muội. Giao Tổ. *Thực tướng mê. Vô tướng mê. Chính mình cũng mê. Giải ba pháp mê này thành ba pháp tỏ thông đến giác ngộ. * Đó là Thực Tướng Vô Tướng tam muội Pháp Môn. Còn phải thi hành hàng bá thiên vạn pháp thần thông Tam Muội mới thực chứng lìa có lấy không đặng rốt ráo Chánh Đẵng Chánh Giác. - Ví dụ cành hoa là chứng từ biện minh. 16. Niết bàn khác Đại Niết Bàn? Niết bàn Chư Phật? * Thanh tịnh là Niết bàn. Đại thanh tịnh là Đại Niết bàn. Không phải chết rồi mới vào niết bàn. * Chư Phật đã thành qủa Bát Đại Niết bàn Địa đại, Thủy đại, Phong đại, Hỏa đại. Hư không đại, Tạng thức đại, Như lai đại, Giác tướng đại. 17. Thể Tánh Pháp Tánh? * Mỗi chúng sanh thọ chủng một Tánh gọi là Pháp tánh. Tất cả tánh tốt xấu, thiệc ác đều là Thể tánh. 18. Một chữ bao gồm tất cả Ấn Chỉ 1, Ấn Chỉ 2, Ấn Chỉ 3, Ấn Chỉ 4, Ấn Chỉ 5. * Thành. Ấn là ấn chứng, Chỉ là trực chỉ Tánh Thành đạo. 19. Thế nào là Hư Không Không Tận? Làm sao đạt? Thế nào là rốt ráo Hư Không Không Tận? * Hư không không tận là nơi thường trụ của Tam Thế Phật qúa khứ, hiện tại, vị lai đã diệu dụng Thành Qủa Phật. Chư Bồ Tát tạm trú thực hiện thấu đạt Tánh vào vô vô minh diệt. Rốt ráo là vô vô minh tận, tương thông Phật Lực. 20. Tu theo Chơn Tánh? * Tu và hành sạch Ma tánh như nhiên Chơn tánh hiện. Đó là tu theo Chơn Tánh. 21. Thế nào là Minh Tâm Kiến Tánh? * Tự mình thấy tánh mình là kiến tánh. Tánh chính Tâm. Hóa giải dung thông tánh. Minh tâm. 22. Trong con đường tu Tỏ Thông Đạt Tận Thành, Minh Tâm Kiến Tánh ở chỗ nào? Làm sao tu đạt Tỏ Thông Đạt Tận Thành? * Bậc tu say đạo tỏ Tánh. Có Mật mới Thông, Không mật không Thông. Bồ Tát thấu đạt minh tâm kiến tánh, Chư Phật tận thành. Bậc tu duy chỉ tin vâng kính được Chư Bồ Tát hành Dụng mới Đạt, Chư Phật diệu dụng mới Thành. * Ngay cả chư vị Tôn giả là A La Hán giác ngộ, đại ngộ. Liễu ngộ là Đại A La Hán, dù có nói hay, viết giỏi cũng chưa tự biết hành thâm vạn pháp sao cho đúng, cho sạch hết sanh tử. - Vì sao? Vì trong hư không không tận chư vị này, chưa tìm được vết chân đường đi chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai. Vì vậy chưa trực giác được đường đi vào long mạch của Chư Phật 23. Làm sao trọn quyền Ứng Hiện? * Khi đã đến chánh đẵng chánh giác liền trọn quyền có Đồng Ứng như nhiên Hiện viên dung suốt suốt. 24. Trong Kinh Đại Bửu Tích, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát dí kiếm vào Đức Bổn Sư ý nghĩa gì? * Tôi chưa đọc kinh này, cũng không nghiên cứu nhiều kinh, nhưng ý nghĩa câu này là - Pháp Tự Tại rốt ráo chư Đại Bồ Tát diệu hành dụng, thuận nghịch, tịnh bất tịnh dung thông, không những không có tội mà còn khai ngộ chư Bồ Tát tiến đến diệu qủa Bồ Đề. * Hy hữu thay, bậc tu nào đương thời gặp được Bồ Tát Nhứt Sanh Bổn Xứ là Đức Di Lạc đang thành Diệu Qủa Phật, bậc tu dám đánh đổi hy sinh hết tất cả để cầu đạo, đó chính là tình thức, liền được diệu dụng đắc Tự Tại, được chứng minh hoàn tất rốt ráo danh hiệu đầu tiên Điều Ngự Trượng Phu. 25. Làm sao giải sạch 4 tướng - Ngã tướng - Nhơn tướng - Chúng sanh tướng - Thọ mạng tướng * Duy nhất chỉ thực hiện Vô ngã, Vô sở hữu. - Kinh nghiệm phải có Bồ Tát Ma Ha Tát, Chư Phật diệu dụng bậc tu cần có Tình Thức mới sạch. - Có tình thâm được hành dụng để trực giác vô ngả. - Tình thức chính là tình vô sở hữu, nó tuy hai mà một, tuy một mà hai với Đại Nguyện, liền được diệu dụng Sạch ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ mạng tướng. 26. Thế nào là phàm phu tùy thuận tánh Viên Giác? Thế nào là Bồ Tát Tam Hiền tùy thuận tánh Viên Giác? Thế nào là Bồ Tát lên Thánh Vị tùy thuận tánh Viên Giác? Thế nào là Như Lai tùy thuận tánh Viên Giác? * Phàm phu là bậc lấy cá tánh tu nên viên giác còn tùy ý. - Bồ Tát Tam Hiền tùy thuận tánh viên giác chỉ hạnh nguyện thiện căn, thiện chí. - Bồ Tát xuất Thánh là Thánh Vị tùy thuận-nghịch, Tịnh- bất tịnh, hành dụng diệu dụng tánh viên giác để sạch tận chủng tánh chúng sanh. - Như Lai tùy thuận Tánh viên giác hàng Bồ Tát hành thâm sạch chúng sanh giới để tận thành, không tăng không giảm, không cấu không tịnh, đặng rốt ráo không sanh không diệt. 27. Phân biệt Chân Giác, Giác Chân - chân lý, lý chân - thường chơn, chơn thường - Phật Tánh, Tánh Phật - Phật Đạo, Đạo Phật - Đức Trí, Trí Đức - Phổ Chiếu Như Lai, Như Lai Phổ Chiếu. * Chân Giác Vốn sẵn có từ vô thủy vô chung, bậc tu đã sở đắc được chân lý là nguyên thể, chính là Chân Giác. * Giác Chân là bậc tu khi đã sở đắc chân giác rồi, dùng nó hành thâm cho thành tựu Qủa Chánh Giác. - Chân lý vốn sẵn có, bậc tu sở đắc được chân lý. Lý chân là dùng chân lý đã sở đắc tha độ đặng thâm nhập chủng tánh chúng sanh. -Thường Chơn vốn sẵn thường còn, Bậc đạt được thường Chơn, dùng như pháp độ sinh đặng thâm nhập Chơn Thường. - Phật Tánh vốn sẵn sáng tròn đầy, nhưng bậc tu thường nhiễm bị che. Tánh Phật Bậc đắc Phật Tánh hành dụng, diệu dụng Tánh là Tánh Phật. - Chư Phật dạy Đạo gọi là Phật Đạo. Chúng sanh tu và hành theo con đường của Phật là Đạo Phật. * Bậc Thiện căn tu hành tạo Đức trước, sau được gặp Phật đào tạo Trí. Khi đức trí tương song đặng chân nguyên trực giác. Được chư Phật chứng minh làm Tổ. * Bậc tu ác căn Trí vô ngại tạo sẵn trước, gặp Chư Phật đào tạo Đức. Khi Trí Đức tương song đặng trực giác chân nguyên. Do bổn lai diện mục Ác không sửa nổi Tánh, khó đào tạo. * Được chư Phật làm đồ dùng, dụng nghịch hành đào tạo bậc tu Thiện Căn, Thiện Chí đạt Đức Trí tương song, lập thành chư Tổ. - Hiện tại gặp Phật, bậc tu vừa đắc đạo được Chư Phật hiện thân Phổ chiếu Như lai chứng minh. - Thời mạt pháp này, Khi Đức Di Lạc Tôn Phật đã không còn Kim Thân nơi thế gian, bậc tu vừa đắc đạo được Đức Ngài hiện thân Như lai chứng minh, gọi là Như Lai Phổ Chiếu. * Kinh nghiệm chỉ Chư Bồ Tát đã kiến diện Như Lai mới nghe, thấy và thọ lãnh được. - Chưa sở đắc kiến diện như lai, Đức Ngài có hiện thân trước mặt cũng không nghe thấy nên không biết lãnh hội được. - Bởi vậy, Đức Di Lạc Tôn Phật mới đào tạo cho được Bồ Tát MHT, là bậc Thừa Kế Nhất Tôn, tức chân truyền để cứu độ cho Chân Phật Tử nào của Đức Ngài, trực giác được đặng thọ lãnh. 28. Làm sao phá vỡ tạng thức? Nói rõ từng chi tiết. * Tạng thức là pháp giới. Bậc tu nương theo pháp giới, tỏ thông, thâm nhập pháp giới thì phá vỡ được pháp giới. - Bậc tu tin vâng kính cực điểm được Chư Phật diệu dụng, hay Chư Bồ Tát hành dụng, mới đủ công năng công đức phá vở Tạng Thức. 29. Bảy báu trong Bản Thể Chơn Tâm? * Chơn Như, Như Lai Tạng, Nhất Tâm, Pháp Giới, Pháp Tánh, Pháp Thân, Phật Tánh. - Một pháp chính duy nhất tu sở đắc Bảy Báu trong Bản Thể Chơn Tâm là gì lại không hỏi? * Duy nhất chỉ một pháp Nhất Tâm càng lên cao càng khó, vẫn chí dũng niệm niệm Nhất Tâm, sở đắc Nhất tâm là đắc cả bảy báu. Pháp của chư Bồ Tát tiến đến thành Phật. 30. Hành Dụng? Diệu Dụng? * Bồ Tát đã sở đắc Chánh Đẵng Chánh Giác nhưng tánh chưa hoàn toàn diệu gọi là Hành Dụng. Chư Phật đã tận thành con đường tận độ chúng sanh, gọi là Diệu Dụng. 31. Ý nghĩa câu "Quán Tự Tại Bồ Tát Hành Thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa" * Nếu thích, đến Thiền Viện Saigon xin CD11 Trí Cứu Cánh. CD12 Bát Nhả Trí. 32. Then chốt Hạnh Nguyện? * Hạnh Nguyện Then chốt là giữ Thiện Căn Thiện Chí để tu hành theo pháp thuận và tịnh. Hàng Thánh Hiền. * Hành Nguyện Thuận Nghịch, Tịnh Bất Tịnh dung thông. Hàng Phật Giác. 33. Làm thế nào Trăm Sông về một biển cả? * Biết hóa giải thì vạn pháp trở về một pháp. Gọi là Trăm sông về một biển cả. Pháp Vô sanh. 34. Giải khổ ách bằng cách nào? * Sắc, thọ, tưởng, hành, thức không nhiễm là Ngủ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách. 35. Thế nào là Vô Thượng Đẳng? * Vô Thượng Đẵng là Chánh Giác phẩm thứ 9, cao nhất hàng Bồ Tát sở đắc. Trong kinh Phật khai thị Cửu Phẫm Liên Hoa vi phụ mẫu, nghĩa Bậc sở đắc Vô Thượng Đẵng ví như cha mẹ của chúng sanh. - Trong kinh long Hoa, nhân ngày 30 tháng 9 âm lịch năm 1987, đại lễ Đức Di Lạc Tôn Phật chứng minh, hiện diện đông đủ Tứ chúng Pháp Tạng, Tôi đã trình tỉ mỉ, bài diễn văn đắc đạo, phẩm Vô Thượng Đẵng Chánh Giác. - Xem Đức Di Lạc và Long Hoa Làm thế nào Sở Đắc Tự Tánh Pháp Thân? Nói rõ tiến trình tu hành? * Tự mình thấy chủng tánh mình nơi nghe-thấy-biết vạn pháp thuận nghịch, tịnh bất tịnh tu cho sạch, chẳng thiếu sót một pháp nào, sở đắc Tự Tánh Pháp Thân. - Tiến trình tu hành duy nhất chỉ Chư Phật diệu dụng bậc tu Tin vâng kính cực điểm, còn phải Tín hạnh nguyện cực điểm, đủ công năng công đức bổng nhiên sở đắc Tự Tánh Pháp Thân. - Chúng sanh bổn nhiên vốn sẵn có Phật tánh nên chư Phật diệu dụng mới thọ lãnh được. Tự đi không được diệu dụng khó sở đắc lắm. Gặp chư Bồ Tát MHT, Chư Bồ Tát, Đại A la Hán, A la Hán pháp thân cạn sâu, rộng hẹp tùy cấp. Chỉ chư Phật vào chân đế vạn pháp, Pháp Thân tròn đầy. 37. Như Huyễn Văn Huân Văn Tu Kim Cang Tam Muội Pháp Môn? * Tôi không thuộc kinh nhưng có thể nói Bậc tu biết vạn pháp như huyễn, dù có khổ cùng cực, có phải hy sinh ngay cả thân mạng cũng không bỏ tu, cũng còn tin Phật chỉ đạo là Kim cang. Tam muội đã giãi thích ở trên. * Kim Cang Tam Muội Đi đứng nằm ngồi trong tứ thời đều biết vận chuyễn Tam Muội. Không còn sanh tử. - Đừng nhầm lẫn Kim Cang Thủ là bậc tu chấp một pháp giới thuộc định nghiệp, chư Phật cũng không cứu độ được. Ví như Tiên, Thần…tu định tưởng, tu thọ chủng nguyên Tự Tánh Tỏ Tánh? Tại sao Ngài dạy Duy chỉ Tự Tánh Tỏ Tánh đầy đủ tinh thần bất thối là hơn cả? Ấn Chỉ V bài 40. * Pháp thuận, pháp Tịnh chúng sanh ưa thích. Cũng do Tánh hiền lành làm chủ. Thánh Hiền. - Pháp nghịch, pháp bất tịnh, chúng sanh không chịu bài bác cũng do tánh. - Thuận-nghịch. Tịnh bất tịnh dung thông. Không hiền cũng chẳng ác. Bậc tu làm chủ Tánh. Kim Cang Tạng. Đại Bồ tát. - Pháp càng khó, càng động loạn, bậc tu vào chân đế cực khó cũng Tự Tánh lướt qua, hóa giải thắng được hoàn cảnh, viên dung không thối chuyễn cầu Chánh Giác. Đó là do bậc tu đặt tinh thần bất thối là hơn cả. Phật Giác. 39. Làm sao sử dụng Vạn Pháp? * Đang tu nhẫn nhục, nhẫn nhịn, nhẫn nại là Điều ngự vạn pháp. Điều ngự xong, không nhiễm pháp mới sử dụng vạn pháp được. 40. Thế nào là Chơn Tâm Bất Nhị? * Tánh chính Tâm là một. Chơn Tánh chính Chơn Tâm. Không hai chính Chơn Tâm Bất Nhị. 41. Thế nào là SẠCH DỤNG? * Khi bậc tu đoạt đến Chánh giác thì mỗi Tánh là một cái dụng. Diệu dụng Tánh cho rốt ráo là Sạch Dụng. 42. Thiền Tánh? * Tu thiền không còn loạn tưởng đắc Thiền Trí. Bậc tu đạt đến Trí không, dụng được Tánh . Gọi là Thiền Tánh. 43. Phật Thừa? Nói tiến trình tu tập?Tiểu Thừa + Đại Thừa = Phật Thừa - Tiến trình tu hành Tiểu Thừa cúng lạy, cầu xin. - Đại Thừa Hỹ xã. Cao là Hướng Thượng. Phật Thừa tùy thuận Không bỏ cũng chẵng lấy. 44. Hàng Bất Thối Bồ Tát? * Hàng Bồ Tát tu thấu đạt nhất tâm gọi là Bất thối Bồ Tát. Bát Nhã Trí. 45. Thế nào là hàng Ma Ha Tát đã thấu đạt Pháp Tánh? * Hàng Ma Ha Tát là bậc đã tận thấu Bổn Lai Diện Mục Pháp Tánh của mỗi chúng sanh giới tự nơi mình. 46. Pháp môn Phật Pháp Bất Ly Thế Gian Giác? * Nghe Thấy Biết là chuyện thế gian, khi tu hành ngộ được Nghe Thấy Biết chính nó cũng là vạn Pháp. Được gọi là phật pháp bất ly thế gian giác. 47. Cõi Trời Sắc Cứu Cánh? * Cỏi Trời này còn lấy hình Tướng là sắc giới làm chính để tu hành. Gọi là Cõi Trời Sắc Cứu Cánh. 48. Làm sao thấu đạt Bổn Lai Diện Mục Pháp Giới? * Hạnh nguyện, hành nguyện rốt ráo chúng sanh tánh diễn hành là thấu đạt Bổn lai diện mục Pháp Giới. Pháp của chư Bồ Tát. 49. Nói rõ tiến trình tu tập 3 thân Viên Mãn? * Tu và hành cho sạch chủng tánh chúng sanh, đắc Pháp Thân. * Tiếp đến nghiêm túc hạnh cho sở đắc Ứng Thân. Đủ công năng công đức hai thân trên, Chánh báo Thân liền hiện. 50. Tịnh Giác? Giác Tịnh? * Tu nơi thanh vắng như chùa, cốc, núi rừng, tránh xa thế gian để được tịnh gọi là Tịnh Giác. Còn Mê. - Tu tại gia, tu chợ, đủ tiếng nói ngang dọc, thuận nghịch gọi là Động, sạch nghiệp thì Giác Tịnh. 51. Thế nào là Bồ Tát chớ làm ra Tướng Phật vì PHẬT KHÔNG TƯỚNG? * Không Tướng mà Thấy là Tướng Phật. Chư Phật thị hiện viên dung suốt suốt để tận độ Chân Phật Tử. Bồ Tát ưa thích làm ra Tướng Phật, ví như lúc nào cũng đi đứng nằm ngồi trang nghiêm, nói năng từ tốn, để chúng sinh ưa thích, bị thọ giới là Bồ Tát giả. 52. Sơ Thiền? Nhị Thiền? Tam Thiền? Tứ Không Thiền? Chỉ gút 4 chữ nói 4 lối Thiền? * Trong kinh Ấn Chỉ Biệt Tôn Vô Thượng Đẵng, Đức Di Lạc Tôn Phật đã có khai thị , tôi chỉ gút - Sơ Thiền Triền miên Định. - Nhị Thiền Tỏ Thông Tánh. Định. - Tam Thiền Nhiếp thu. Định. - Tứ không Thiền Đi đứng nằm ngồi Tứ thời viên tịnh, lìa viên tịnh tức lìa Định. Chánh Định. Gút lại bốn chữ bốn cấp đều Định. * Bốn lối Thiền duy nhất duy chỉ Hết loạn Tưởng, viên Dung vạn pháp, gút bốn chữ đều là Định. 53. Pháp Môn Tối Thượng Chơn Truyền? * Bồ Tát được Phật diệu dụng sở đắc Vô Thượng Đẵng Chánh Giác. Còn phải được Phật chứng minh, Bồ Tát mới nhập thể. Tương thông Phật lực. Sau tha độ hành dụng, đến diệu dụng mới vào được pháp môn Tối Thượng Chơn Truyền. * Bồ Tát đắc Vô Thượng Chánh giác mà chưa được Vị Phật chứng minh, vẫn vòng quanh trong lục đạo diễn Hành, chưa có quyền lực nên chưa được Tương Thông Phật lực. Duy nhất chỉ bậc Thừa kế được gọi là Chơn Truyền. 54. Ý nghĩa từng danh hiệu - Đức Tịnh Vương Phật - Đức Vô Thượng Tôn Phật - Đức Di Lạc Tôn Phật * Đức Tịnh Vương Phật Vị Phật quyền lực Tổng Thể Vũ Trụ. Vị Phật nào khi Thành Phật cũng phải chờ Đức Tịnh Vương Phật đến chứng minh cho mới vào Bát Đại Niết Bàn. Như Đức A DI Đà Phật, Đức Phật Thích Ca, Đức Phật Di Lạc. - Tịnh Vương Nhất Tôn là tên Đức Phật Di Lạc hiện kiếp này. Không phải Đức Ngài là Tịnh Vương Phật. * Kỳ hạ Lai kiếp này Bồ Tát Di Lạc thành Phật, là qủa Vô Thượng Đẵng Chánh Giác. Nên Ngài lấy danh hiệu Vô Thượng Tôn Phật. Cũng là Di Lạc Tôn Phật. - Phật Vương là vị Phật đào tạo ra được Bồ Tát MHT, Bồ Tát. - Phật đào tạo ra chúng sanh là Phật của chúng sanh. Phật giả danh. Phật đào tạo ra La Hán là Phật Bích Chi. - Một hôm, khi Đức Di Lạc Tôn Phật khai thị cho Tổ Bồ Đề Đạt Ma, đang tu trong Pháp Tạng có Tôi hiện diện Cứ hành thâm Bồ Tát Hạnh, Bồ Tát Nguyện còn có ngày thành Phật. Chớ đóng tướng Bích Chi Phật thuộc định nghiệp, muôn tỷ kiếp không thành Phật. 55. Đẳng Giác? Diệu Giác? * Bậc đã sở đắc Vô Thượng Đẵng Chánh Giác gọi là Đẵng Giác. Từ hàng Bồ tát trở lên. * Chính tôi nghe như vầy kỳ hạ lai này nhiều bậc tu đã gặp được Đức Di Lạc Tôn Phật, tuy chưa giác vẫn được qui chế Bồ Tát Hạnh, Bồ Tát Nguyện. - Chư Phật đã tận dụng chúng sanh thành tựu Diệu Dụng gọi là Diệu Giác. - Ngoài Thập Địa, Bồ Tát Ma Ha Tát đang hành thâm thêm hai địa nữa là Thập Nhị Địa Đẵng Giác Địa và Diệu Giác Địa. 56. Thế nào Ma Ha Tát mới biết Vạn Pháp là cái gì? Ấn Chỉ 5, Bài 28, Cẩm nang giải quyết Vạn Pháp với Chúng Sanh. * Hàng Ma Ha Tát nương vạn pháp, hành thâm thấu đạt sạch chủng tánh chúng sanh tập khí sanh tử, mới biết vạn pháp vốn sẵn không cấu không tịnh, không tăng không giảm. Khi đủ công đức cúng dường Như lai liền chứng thị Không sanh không diệt. 57. Kiết sử khó giải nhất? * Nghiệp Thô, nghiệp Thanh, nghiệp Vi tế, nghiệp Kiết sử. Bậc tu nào cũng có 4 loại nghiệp này. Chỉ Chư Phật mới giải nổi nghiệp kiết sử cho Bậc tu có Tình Thức như chư Bồ tát. 58. Hết tập khí sanh tử? * Tu hành thâm sạch 4 loại Nghiệp trên là giải hết tập khí sanh Thế nào là Tận Độ tất cả Chúng Sanh Tánh thành Phật? * Tu sạch hết chúng sanh tánh, còn phải hành dụng, diệu dụng tận độ rốt ráo chủng tánh chúng sanh mới Thành Phật. 60. Chìa khóa Tương Thông Phật Lực? * Đắc Tam Muội, còn phải vận chuyễn được thần thông tam muội. Được Phật hiện tại thị hiện chứng minh, Tương Thông Phật Lực. - Bồ Tát, Chư Tổ sở đắc Tam Muội Tương Thông Phật Lực. - Bồ Tát Thượng Thủ, không chỉ tương Thông Phật Lực mà còn được Như Lai thị hiện chỉ đạo, cứu độ chúng sanh thọ báo, phước báo, chánh báo. 61. Chìa khóa sở đắc các Pháp Tam Muội? * Đã giải ở câu 12. 62. Giác Mê? Mê Giác? * Giác chưa Thành Đạo. Quả chưa đạt gọi là Giác Mê. Mê tu cho Giác gọi là Mê Giác. - Giác Mê, Mê Giác đều là nguyên thể của Chân Như. 63. Đại Bát Niết Bàn? Bát Đại Niết Bàn? Con đường dẫn đến Tu Chứng? * Đã giải ở câu 16. - Con đường dẫn đến Tu Chứng Đang tu thành tựu chúng sanh tánh Tám Đại đã giãi ở trên, được gọi Đại Bát Niết Bàn. - Hành dụng, diệu dụng thành Diệu Quả Chánh Giác, tứ thời đi đứng nằm ngồi viên thanh tịnh, đến Bát Đại Niết bàn. 64. Tại sao Ngài tự cho mình là "Kẻ chăn bò thuê mướn hoặc là người lau tượng"? * Thời mạt pháp chứng tu, tu chứng, xưng Phật giả dẫy đầy khó phân Phật Di Lạc phải nhân cách hóa, tự ví mình là kẻ thấp hèn, là người lau tượng, vẫn tu hành Thành Phật được, không cần hiện thân con nhà cao sang như Vua, Chúa. Ngụ ý chúng sanh nào nhứt tâm vẫn tu thành Phật. 65. Thế nào là tứ trí? Phân biệt rành mạch dẫn đến tứ trí? * Nhân sanh Trí, Tiên Thần Trí, Bồ Tát trí, Phật Trí. - Nhân sanh Trí còn gọi là chúng sanh trí, có hình tướng, có sắc tướng mới thấy biết. - Tiên Thần Trí Sống nhờ Tư Tưởng, công dụng định tưởng làm lẽ sống, thu nhận Tinh Khí Thần để sống lâu. Xa lánh chốn nhân sinh. Dùng uy quyền với thuộc cấp. Thông minh. Cấp nhị thừa tu chứng. - Bồ Tát Trí Hạnh nguyện hành thâm pháp giới Chúng sanh trí, Tiên Thần trí để tạo Đại Trí. Tân độ chúng sanh tánh hành dụng thấu đạt Như Lai Tạng. - Phật Trí Trí Diệu pháp Liên hoa Phật. Tận thành từng lớp lớp chủng tánh chúng sanh, chủng tánh Tiên Thần, chủng tánh Bồ Tát thọ báo, phước báo, chánh báo. 66. Thế nào lục thông? Phân biệt rành rẽ con đường lục thông? * Trong Bảo Phẩm Xuất Thế Chơn Kinh Đức Di Lạc Tôn Phật đã có khai thị. - Duy nhất chỉ có một con đường, bậc tu Phật trực giác Nhất Tâm siêu đẵng mới tỏ thông nghiệp lậu. Gọi là Lậu Tận Thông. - Từ Lậu Tận Thông hóa sanh tư tưởng thông là Thần Túc Thông, tiếp đến thứ tự Tha Tâm Thông… Lục Thông. * Tiên, Thần Đạo, Ma Đạo có ngũ thông. Không có Lậu Tận Thông. Còn sanh tử. * Đức Ngài khai thị Thời mạt pháp không Thần Thông, cũng chẵng Lục Thông. Chỉ vận chuyễn tam muội, đi trong lửa để cầu Diệu Qủa Bồ Đề là sạch hết sanh tử. 67. Thế nào là Ngũ Nhãn? Con đường dẫn đến Ngũ Nhãn? * Nhục nhãn Cái thấy của chúng sanh. - Thiên nhãn Cái thấy của Tiên Thần. - Huệ nhãn Cái thấy của Bậc tu giác ngộ. - Pháp nhãn Thấy vạn pháp đắc Pháp Thân. - Phật nhãn Thấy tròn khắp pháp giới chúng sanh. * Con đường dẫn đến Ngũ nhãn - Thấy gì cũng được, nghe gì cũng được, không chống đối, không chướng, không chấp. 68. Tại sao Ngài dạy trong Bảo Phẩm Xuất Thế Chơn Kinh "Mình tự nhận Sở Đắc chưa hẳn là Sở Đắc, đến giai đoạn Sở Đắc thì không nhận vẫn Sở Đắc" Phẩm làm thế nào tu tâm để giải cuồng tín. * Tự nhận sở đắc bị chấp, do thọ bản ngả cũng như chưa sở đắc. - Đến khi giác ngộ, lìa ngã, không nhận sở đắc vẫn đắc. 69. Thế nào là Đại Giác? * Bậc tu giác ngộ hành thâm Vô số pháp giác ngộ, đắc Đại ngộ. Cấp A La hán. 70. Làm sao sử dụng Như Lai Tạng xâu chuỗi Vạn Pháp dựa trên gốc thực tiễn chơn lý? * Duy chỉ quyết tâm sẽ sở đắc pháp Nhất Tâm là biết sử dụng Như Lai Tạng nơi pháp giới vạn Pháp. Đó là chân lý thực tiễn. 71. Vô Sanh Pháp Nhẫn? * Nhẫn nhục thì không sanh pháp nữa là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Khác với Vô Sanh là không còn sanh tử luân hồi. 72. Vô Ngã. * Không ta. Không bản ngã. * Bồ tát đi hữu ngã cũng thành vô ngã. Chúng sanh đi vô ngã cũng thành hữu ngã.
Nhục thân thiền sư Như Trí với sự xâm hại nghiêm trọng của thời tiết, vi khuẩn, côn trùng hàng mấy trăm năm, lẽ ra toàn thể đã phải về với cát bụi, thế nhưng, vì sao ngài vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí cả khối vật chất của phủ tạng cũng vẫn còn nguyên vẹn? Câu hỏi này chưa có lời giải đáp. > Vì sao các thiền sư bất hoại sau khi viên tịch? Chùa Tiêu thờ nhục thân của thiền sư Như Trí Chùa Tiêu hầu như không bị ảnh hưởng bởi các biến cố lịch sử qua nhiều thời kỳ, giữ nguyên được nét kiến trúc thời Lê - Nguyễn. Chùa là chốn tu thiền giảng đạo của nhiều bậc cao tăng trong đó sư Vạn Hạnh là người trụ trì. Chùa Tiêu xưa có tên là chùa Lục Tổ, tọa lạc ở sườn núi Tiêu, thuộc xã Tương Giang, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội 20km về phía Bắc dọc theo quốc lộ 1A. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa xưa từng lưu giữ ván in sách Thiền uyển tập anh, một tác phẩm ghi chép về các danh tăng Việt Nam có giá trị về văn học, sử học, triết học. Chùa được dựng từ thời Lý. Chùa là nơi tu thiền và giảng pháp của nhiều cao tăng thời Lý, như Thiền sư Vạn Hạnh. Ở chùa có tấm bia đá cao 0,68m, ngang 0,40m, khắc bốn chữ “Lý Gia Linh Thạch”. Sách Từ điển di tích văn hóa Việt Nam Hà Nội, 1993 giới thiệu chùa này xưa là nơi trụ trì của Thiền sư Vạn Hạnh đồng thời cũng là nơi sinh của vua Lý Thái Tổ. Sử xưa cho biết ở Viện Cảm Tuyền chùa Thiên Tâm có con chó đẻ con sắc trắng đốm đen thành hình hai chữ “Thiên tử” điều đó ứng với việc vua Lý Thái Tổ sinh năm Giáp Tuất rồi lên làm vua. Chùa được trùng tu nhiều lần. Cổng chùa hiện nay được xây năm 1986. Chùa xưa từng lưu giữ ván in sách Thiền uyển tập anh, một tác phẩm ghi chép về các danh tăng Việt Nam có giá trị về văn học, sử học, triết học. Chùa đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia. Đặc biệt, chùa còn giữ tháp mộ và nhục thân Thiền sư Như Trí bất hoại trọn 300 năm, Ngài viên tịch năm Quý Mão 1723, là người có công khắc in cuốn Thiền Uyển tập anh. Nhà Tổ chùa Tiêu. Nhục thân thiền sư Như Trí 300 năm bất hoại Ni sư Đàm Chính - Trụ trì chùa Tiêu, người đã ngoài 90, đã có hơn 80 năm gắn bó với ngôi chùa Tiêu kể lại “Ngày xưa, khắp ngọn núi Tiêu cây cỏ rậm rạp, rắn rết bò lổm ngổm đầy núi, nên chẳng ai dám vào khu vực có mộ tháp, nơi đặt xương cốt của các hòa thượng. Hồi mới về chùa, có năm mưa gió liên miên, cây cỏ rậm rạp, mọc trùm kín các mộ tháp, nên nhà chùa đã bắc thang trèo lên các mộ tháp để dọn cỏ. Như duyên trời, khi nhà chùa dọn cỏ ở tháp Viên Tuệ, thì một viên gạch rơi ra. Nhà chùa cầm viên gạch ghép lại chỗ cũ, thì phát hiện thấy dòng chữ in trên viên gạch Hòa thượng Như Trí, viên tịch năm 1723 Bảo Thái năm thứ tư triều Lê Dục Tông. Sau này, tìm hiểu các tài liệu, thấy tên sư Như Trí đứng thứ 15 trong danh sách các vị hòa thượng đã trụ trì chùa Tiêu, vẫn được chùa cúng thỉnh”. Ni sư Đàm Chính - Trụ trì chùa Tiêu, người đã ngoài 90, đã có hơn 80 năm gắn bó với ngôi chùa Tiêu. Qua khe hở do viên gạch rơi ra, ni sư Đàm Chính ghé mắt nhìn vào và giật mình suýt ngã khi thấy rõ ràng một người đang ngồi kiết già trong tháp. Hoảng quá, ni sư Đàm Chính cầm viên gạch bịt kín lại và chôn chặt chuyện này trong lòng, không kể với bất kỳ ai. Theo các tài liệu còn lưu lại ở chùa, thiền sư Như Trí là đệ tử nối pháp của thiền sư Chân Nguyên. Thiền sư Như Trí đã từng khắc in lại bộ Thiền Uyển Tập Anh, là bộ sách có giá trị đặc biệt không những về lịch sử Phật giáo mà còn là một tác phẩm truyền kỳ có giá trị về văn học, triết học và văn hóa dân gian. Thiền sư Như Trí cùng người thầy Chân Nguyên của mình tiếp nối tinh thần phục hưng dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Theo các tài liệu của thiền phái Trúc Lâm, sau khi mãn duyên độ sinh, ngài an nhiên trước sinh tử, nhập thất kiết già và để lại nhục thân bất hoại. Theo ni sư Đàm Chính, nếu không có sự kiện một người chăn trâu mò lên tháp tìm của quý, chọc thủng pho tượng thiền sư Như Trí, thì ni sư quyết đem bí mật về pho tượng kia xuống suối vàng. Năm ấy, một người đàn ông trong làng, khi thả trâu trên núi Tiêu, đã mò lên tháp Viên Tuệ với ý định tìm… vàng bạc. Gỡ mấy viên gạch ra, ông này nhìn thấy một pho tượng giống hệt một người còm nhom đang ngồi trong tháp. Do tò mò, ông ta đã kiếm một cây gậy chọc thử vào pho tượng. Kết quả, ông ta chọc thủng mặt vị thiền sư đã an tọa gần 300 năm trong tháp gạch rêu phong. Tháp Viên Tuệ - nơi ni sư Đàm Chính đã phát hiện nhục thân thiền sư Như Trí. Sau này người chăn trâu này bị bệnh trọng, thế là lời đồn thổi về một nhà sư chết ngồi trong tháp rất linh lan truyền khắp xóm thôn. Biết không thể giấu kín chuyện này mãi, khi Hòa thượng Thích Thanh Từ - trụ trì Thiền viện Trúc Lâm ở Đà Lạt và Tỳ kheo Thích Kiến Nguyệt - Tổng thư ký Thiền viện Trúc Lâm tới thăm chùa Tiêu Sơn. Ni sư Đàm Chính đã báo cáo với Hòa thượng Thích Thanh Từ - Trụ trì Thiền viện Trúc Lâm ở Đà Lạt và nhờ thiền viện giúp đỡ. Quá trình tu bổ Nhục thân thiền sư Như Trí Bắt đầu quá trình tu bổ PGS. TS Nguyễn Lân Cường kể, hồi đang tu bổ nhục thân Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường ở chùa Đậu, Tỳ kheo Thích Kiến Nguyệt - Tổng thư ký Thiền viện Trúc Lâm đã đến xem và có ý yêu cầu ông tu bổ giúp một nhục thân nữa, tuy nhiên, gặng hỏi mãi mà vị tỳ kheo kia nhất quyết không nói đó là nhục thân nào, ở chùa nào. Chúng tôi đã soạn thảo dự án “Tu bổ và bảo quản nhục thân thiền sư Như Trí ở chùa Tiêu Sơn Bắc Ninh”. Theo dự án này, Sở Văn hóa - Thông tin Bắc Ninh là cơ quan lập thiết kế và phương án thi công, Thiền viện Trúc Lâm là đơn vị chủ đầu tư của dự án. Tôi là chủ nhiệm dự án cùng thực hiện với họa sĩ sơn mài Đào Ngọc Hân và Tỳ kheo Thích Kiến Nguyệt - Tổng thư ký Thiền viện Trúc Lâm, người theo sát dự án để lo kinh phí. Thiền sư Như Trí lúc đang ngồi trong am tháp Ảnh chụp lại ở chùa Tiêu. Ngày nhục thân thiền sư Như Trí được đưa ra khỏi tháp. Nhục thân ngồi thiền định trong tư thế bán già, tay kiết ấn Tam muội, nhưng vì ẩm mốc nên bị mục rớt phần cẳng tay. Có một lỗ thủng lớn chính giữa mặt. Xương mũi và xương hàm trên thụt vào hộp sọ. Xương màu đen còn nhìn thấy rõ bên trong hộp sọ. Vết nứt ở tai phải từ thái dương qua trước dái tai xuống cổ và chạy sát tới đầu xương đòn phải. Hai tay bị vỡ từ cánh tay đến hết bàn tay. Các mảnh vỡ rơi rụng xuống nền và lẫn với đất, đá. Xương mỏng và có màu đen. Một vết vỡ lớn khác ở giữa ống chân phải, không nhìn thấy xương. Mặc dầu tượng bị vỡ phần tay, ống tay bị vỡ rụng xuống dưới, nhưng trên ống chân còn dấu vết của một phần bàn tay. Phía trong mảng bồi, nhìn thấy rõ thớ vải bằng mắt thường. Trật tự từ ngoài vào trong là vải bồi, bó, hom, sơn màu ngà. Không thấy thếp vàng hay bạc. Nhục thân được sơn phủ bên ngoài một lớp sơn ta màu ngà, mắt và lông mày vẽ bằng sơn đen. Lớp sơn đã bị bong tróc nhiều nơi, nên có màu sắc loang lổ. Do nhục thân đặt trong tháp bịt kín lâu ngày trong môi trường ẩm, mốc làm hỏng lớp sơn và bong tróc. Từ các phần hỏng, thủng, hơi ẩm, côn trùng và vi sinh vật đang xâm nhập vào phá hoại phần bên trong của nhục thân. Người chăn trâu đã chọc thủng mặt vị thiền sư đã an tọa gần 300 năm trong tháp gạch rêu phong. Do ở chùa Tiêu Sơn rất hiếm nước, khách tham quan lại đông nên việc tu bổ, bảo quản được quyết định chuyển về thực hiện tại chùa Duệ Khánh xã Nội Duệ, huyện Tiên Du - Bắc Ninh. Để diệt khuẩn ở bên ngoài và trong tượng, phải phun thuốc diệt khuẩn và xông thuốc. Bề mặt pho tượng bị nứt, nhiều nơi bị bong tróc lớp sơn ta. Chúng tôi xử lý ngay bề mặt pho tượng bằng cách phủ bề mặt bằng vải màn và phủ sơn rồi rắc mạt cưa lên sơn khi bề mặt chưa khô. Bề mặt pho tượng được gia cố dần. Khi gỡ phần nhục thân khỏi đế, chúng tôi phát hiện đế là một tấm gốm nung màu đỏ, mặt áp vào đáy tượng có in hình nan phên. Phía trong lớp bồi nhìn rất rõ lớp vải màn. Từ mặt đáy, xương sên, gót và xương mác nằm khá đúng vị trí giải phẫu. Như vậy có thể kết luận nhục thân được bó cốt ngay sau khi tịch, không có sắp xếp xương như nhục thân thiền sư Vũ Khắc Trường. Để xác định giới tính, tuổi tác, tầm vóc và bệnh lý của thiền sư Như Trí, PGS, TS Nguyễn Lân CƯờng đã nghiên cứu tất cả số di cốt bị rơi xuống dưới trong khi đưa nhục thân ra khỏi tháp. Có một đốt sống ngực có chiều cao thân thấp và không cân xứng. Điều này gợi ý cho chúng tôi về bệnh viêm cột sống của thiền sư. Diện khớp mu còn thấy rõ để có thể định tuổi của thiền sư khoảng 40 - 45 tuổi. Nhục thân thiền sư Như Trí khi chưa tu bổ. Phủ tạng còn nguyên trong bụng Vào ngày điều vô cùng ngạc nhiên với PGS,TS. Nguyễn Lân Cường khi tu bổ pho tượng, đó là ông đã phát hiện ra một khối hợp chất bằng quả bưởi nằm trong bụng thiền sư Như Trí. PGS,TS. Nguyễn Lân Cường kể Tôi và họa sĩ sơn mài Đào Ngọc Hân lật ngược nhục thân để nghiên cứu phần trong lòng và ngạc nhiên khi phát hiện ra một khối hợp chất bằng quả bưởi nằm chính giữa phần bụng. Tượng được phủ kín bằng sơn ta, phía dưới lại có đáy gốm, do đó khối vật chất này từ ngoài không thể lọt vào trong ổ bụng được. Sau khi lấy mẫu phân tích, kết quả thật bất ngờ rằng đó là các chất còn lại của phần phủ tạng trong bụng thiền sư Như Trí. Như vậy, đây là lần đầu tiên ở Việt Nam phát hiện và chứng minh được có phần nội tạng trong bụng thiền sư. Điều này có thể suy luận rằng trong bụng thiền sư Vũ Khắc Minh ở chùa Đậu, huyện Thường Tín Hà Tây cũ chắc cũng còn lại khối vật chất là phần nội tạng mà qua phim X-quang không thể phát hiện được. Nhục thân thiền sư Như Trí lúc mới phát hiện trong tháp mộ. Ông Cường khẳng định “Tượng được phủ kín bằng lớp bồi, phía dưới lại có đáy gốm hình tòa sen, do đó, khối vật chất này không thể lọt vào ổ bụng được”. Tin chắc khối vật chất này chính là nội tạng của thiền sư Như Trí, song ông Cường và các nhà khoa học vẫn lấy mẫu chuyển đến Viện Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia để phân tích. Đúng như dự đoán, kết quả phân tích hóa học cho thấy, hợp chất lấy từ bụng thiền sư Như Trí chính là các chất còn lại của phần phủ tạng. Từ kết quả này, PGS, TS. Nguyễn Lân Cường suy luận rằng, trong bụng hai vị thiền sư chùa Đậu cũng có khối hợp chất còn lại của nội tạng mà máy chụp X-quang không phát hiện được. Ngày Tỳ kheo Thích Kiến Nguyệt và PGS, TS. Nguyễn Lân Cường đã chuyển nhục thân thiền sư Như Trí tới Bệnh viện Đa khoa Bắc Ninh để chụp phim X-quang. Sau khi đã tu bổ được phần thân, PGS, TS. Nguyễn Lân Cường khoét phần gáy để đưa đốt sống cổ bị rời ra ban đầu. Đến độ sâu 1,3 cm bỗng chiếc đục trên tay họa sĩ Đào Ngọc Hân bật trở lại, ánh xanh của gỉ đồng lóe lên. Ngày Tỳ kheo Thích Kiến Nguyệt và PGS, TS. Nguyễn Lân Cường đã chuyển nhục thân thiền sư Như Trí tới Bệnh viện Đa khoa Bắc Ninh để chụp phim X-quang. Và đã phát hiện thấy sau khi bồi lớp thứ nhất, người ta đã đặt một tấm đồng lớn trên lưng chiều dài 65 cm; rộng 15 cm và một tấm đồng trên ngực chiều rộng 22 cm. Phía ngoài hai tấm đồng là lớp bồi dày trên dưới 1 cm. Trên đầu và bắp tay cũng được cuốn những dải băng bằng đồng có các kích thước khác nhau. Vòng quanh đầu trên hai tai là ba dải băng một dải nhỏ 0,6 cm, hai dải lớn hơn 0,79 cm. Có ba dải băng khác từ trên đỉnh đầu dọc theo thái dương xuống sau cằm. Ba dải băng này có một dải to 1cm và hai dải nhỏ 0,5 cm. Nhìn theo chuẩn sau có bốn dải băng to chiều rộng 2,13 cm, chạy từ cổ lên đỉnh đầu luồn qua dải băng to vuông góc với nó gập quay trở lại xuống cổ ở phía sau gáy. Qua phim X-quang thấy rất rõ vết gấp này. Một số dải băng khác được cuốn quanh cổ và hai dải băng có chiều ngang nhỏ 0,4 cm chạy vòng từ nách vắt qua vai, từ trước ra sau. Để bảo đảm độ bền vững cho pho tượng nhục thân thiền sư Như Trí, PGS, TS Nguyễn Lân Cường và đồng nghiệp đã thếp bạc trên toàn bộ pho tượng. Đồng thời quyết định đổ khuôn làm một pho tượng thứ hai bằng composite đặt trong tháp Viên Tuệ, còn pho tượng gốc đặt tại nhà Tổ. Đây là hiện tượng đầu tiên ở Việt Nam. Có nhiều khả năng nó giúp cho tư thế ngồi của thiền sư vươn thẳng, tránh bị cúi gập xuống ở phần cổ, lưng và cũng có khả năng để bảo vệ hộp sọ. Lớp bồi bên ngoài nhục thân thiền sư Như Trí dày 0,66 cm, gồm hai lớp lớp ngoài màu vàng nâu, lớp trong màu đen. Cả hai lớp thành phần đều gồm vải, sơn ta và mạt cưa... Không hề có dát vàng hay bạc như tượng thiền sư Vũ Khắc Minh. Để bảo đảm độ bền vững cho pho tượng nhục thân thiền sư Như Trí, PGS, TS Nguyễn Lân Cường và đồng nghiệp đã thếp bạc trên toàn bộ pho tượng. Đồng thời quyết định đổ khuôn làm một pho tượng thứ hai bằng composite đặt trong tháp Viên Tuệ, còn pho tượng gốc đặt tại nhà Tổ. Ngày lễ khánh thành việc tu bổ và bảo quản nhục thân thiền sư Như Trí đã được tổ chức tại chùa Tiêu Sơn. Ngày Thiền viện Trúc Lâm đã tổ chức lễ cầu nguyện cho thiền sư Như Trí tại chùa Duệ Khánh và làm lễ rước nhục thân về chùa Tiêu Sơn rất trọng thể. Ngày lễ khánh thành việc tu bổ và bảo quản nhục thân thiền sư Như Trí đã được tổ chức tại chùa Tiêu Sơn.
Sau 5 năm từ Thái Lan trở về Việt Nam và tịnh dưỡng tại chùa Từ Hiếu Thành phố Huế, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã viên tịch lúc 0 giờ ngày 22/1/2022 ngày 20 tháng Chạp năm Tân Sửu, trụ thế 96 năm. Với tâm niệm "hãy đi như thể dùng đôi chân hôn lên Trái Đất", Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã dành phần lớn cuộc đời mình để tới khắp nơi trên thế giới, tuyên truyền Phật pháp cũng như tư tưởng yêu chuộng hòa bình. Thiền sư Thích Nhất Hạnh và mục sư Martin Luther King Jr. năm 1966. Ảnh Sweeping Zen Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng nhiều lần đến Mỹ để nghiên cứu và diễn thuyết tại nhiều trường đại học nổi tiếng, với mục đích “dấn thân" vận động cho hòa bình. Tháng 6/1965, Thiền sư đã viết thư cho mục sư Martin Luther King Jr., nhà hoạt động dân quyền nổi tiếng của Mỹ, để kêu gọi chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam. Một năm sau, hai người đã có lần đầu tiên gặp nhau tại Chicago Mỹ, và cùng thảo luận về hòa bình, tự do và cộng đồng. Mục sư Martin Luther King Jr đã gọi Thiền sư Thích Nhất Hạnh là “tông đồ của hòa bình và bất bạo động", đồng thời đề cử Thiền sư cho Giải Nobel Hòa bình năm 1967. Sau này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh kể rằng khi hay tin mục sư Martin Luther King Jr bị ám sát vào ngày 4/4/1968, ông đã suy sụp đến mất ăn, mất ngủ. “Tôi thề sẽ tiếp tục xây dựng cái mà ông ấy gọi là cộng đồng yêu thương, không chỉ vì tôi mà còn vì ông ấy. Tôi đã làm những gì tôi đã hứa với Martin Luther King Jr. Và tôi nghĩ rằng tôi luôn cảm thấy sự phù hộ của ông ấy”, Thiền sư chia sẻ. Thiền sư Thích Nhất Hạnh và mục sư Martin Luther King Jr. trong một cuộc họp báo ở Chicago Mỹ tháng 5/1966. Ảnh AP Những lời dạy và phương pháp của Thiền sư thu hút sự quan tâm của nhiều người với những quan điểm tôn giáo, tâm linh và chính trị khác nhau. Báo New York Daily News mô tả Thiền sư Thích Nhất Hạnh là người "đã thay đổi cách thế giới thực hành Phật giáo", đồng thời xem Thiền sư là nhà lãnh đạo Phật giáo có ảnh hưởng lớn. Sau khi Thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch, tài khoản Facebook chính thức của Thiền sư đã đăng tải bức thư chia buồn của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Bức thư viết “Tôi vô cùng đau buồn khi biết rằng người bạn, người anh em tôn giáo quý mến Thích Nhất Hạnh đã viên tịch. Tôi xin gửi lời chia buồn đến quý đệ tử của ngài ở Việt Nam và trên toàn thế giới. Việc ngài phản đối Chiến tranh Việt Nam trong ôn hòa, sự ủng hộ đối với ông Martin Luther King, nhà hoạt động dân quyền người Mỹ gốc Phi, và hầu hết mọi sự cống hiến của ngài trong việc chia sẻ với những người khác, cho thấy sự sống trong chánh niệm và với lòng từ bi không những góp phần vào sự an trú trong nội tại, mà còn phản ánh cách thức các cá nhân có thể dùng chánh niệm xây dựng hòa bình cho thế giới, Thiền sư đã sống một cuộc đời đầy trọn vẹn và tràn đầy ý nghĩa. Tôi chắc chắn rằng cách tưởng niệm tốt nhất đối với Thiền sư là tiếp nối nỗ lực của ngài trong việc mang lại hòa bình cho thế giới". Thiền sư Thích Nhất Hạnh và người dẫn chương trình nổi tiếng Oprah Winfrey. Ảnh Lang Mai Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã phối hợp kiến thức của nhiều trường phái thiền khác nhau cùng với các phương pháp từ truyền thống Phật giáo Thượng tọa bộ, những nhận thức sâu sắc từ truyền thống Phật Giáo Đại thừa, và một số phát kiến của ngành tâm lý học đương đại phương Tây để tạo thành cách tiếp cận mới đối với thiền. Ông cũng là người đưa ra khái niệm "Phật giáo dấn thân". Bên cạnh đó, Thiền sư Thích Nhất Hạnh là tác giả của hơn 100 cuốn sách, trong đó hướng dẫn mọi người cách tìm thấy bình yên mà theo Thiền sư là "luôn hiện hữu trong mọi khoảnh khắc của cuộc sống". Nhiều người nổi tiếng trên toàn cầu, không phân biệt tôn giáo, quan điểm chính trị, đã chịu ảnh hưởng bởi những quan điểm sống, thế giới quan của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. “Nữ hoàng truyền thông Mỹ” Oprah Winfrey từng có cơ hội phỏng vấn Thiền sư và nói rằng Thiền sư đã tác động sâu sắc đến suy nghĩ của bà. Christiana Figueres, cựu Thư ký điều hành Công ước khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi Khí hậu, hồi năm 2016 chia sẻ rằng bà khó lòng thúc đẩy thông qua Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu thành công "nếu không có những lời dạy của Thiền sư Thích Nhất Hạnh đồng hành". Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại một buổi tọa đàm của Ngân hàng Thế giới năm 2013. Ảnh HM Năm 2015, Thiền sư Thích Nhất Hạnh được trao giải Hòa bình trên Trái ất, giải thưởng thường niên được Giáo hoàng John XXIII đề xướng từ năm 1963 nhằm vinh danh những người tạo dựng thành tựu về hòa bình và công lý, không chỉ riêng cho đất nước họ mà cho toàn thế giới. "Ông là người dành cả cuộc đời cho sự nghiệp hòa bình và công lý", chứng thư mà Giám mục Martin Amos trao cho Thiền sư có đoạn viết. Năm 2019, Thiền sư được quỹ Hòa bình Schengen và Diễn đàn Hòa bình Thế giới trao giải Hòa bình nội tâm, một hạng mục trong giải thưởng Hòa bình Luxembourg, vì những bài pháp thoại đầy thuyết phục và những cuốn sách bán chạy nhất về chánh niệm và hòa bình. Thiền sư Thích Nhất Hạnh phải nói chuyện cùng Thượng tọa Haemin tại Seoul ngày 14/5/2013. Ảnh Yonhap Theo Thượng tọa Haemin, một trong những vị thiền sư nổi tiếng của Hàn Quốc và từng làm phiên dịch viên cho Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại Hàn Quốc vào năm 2013, Thiền sư là người điềm tĩnh, chu đáo và yêu đời. "Thiền sư giống như một cây thông lớn, để cho nhiều người ngồi dưới tán cây của ông và nghe ông giảng những lời dạy tuyệt vời về chánh niệm và lòng từ bi", Thượng tọa Haemin chia sẻ. >>> Đọc tin thế giới trên VietNamNet Việt Anh Thiền sư Thích Nhất Hạnh, một đời cho Phật pháp và hòa bình 96 năm trụ thế, Thiền sư Thích Nhất Hạnh được biết đến là một nhà hoạt động tôn giáo, nhà thơ, nhà hoạt động vì hoà bình được thế giới kính nể với những lời dạy thông qua chánh niệm về hoà bình, xây dựng cộng đồng… Bậc chân tu đã về với mây trắng Một bậc chân tu hiếm có đã an nhiên về cõi Phật. Sáng nay, trên trang web của Đạo Tràng Mai Thôn Làng Mai thông báo di huấn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.
thien su di nhu